Sách
TP. Hồ Chí Minh)
Kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của hệ Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa nặng về pháp, nên có tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Đức Phật là người đủ tư cách diễn nói diệu pháp, được triển khai trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Kết hợp hai bộ kinh này, chúng ta có đủ Phật pháp để xây dựng đời sống lý tưởng của người tu theo Đại thừa.
Mặc dù tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày, hiểu được diệu pháp không đơn giản. Có thể nói trên bước đường hành đạo, gặp hoàn cảnh tương ứng với một pháp nào đó của Phật dạy, chúng ta hiểu được pháp ấy. Những gì còn lại nằm ngoài nhận thức của chúng ta, thường được coi là pháp mầu nhiệm. Riêng Đức Phật với trí toàn giác, Ngài hiểu rõ tất cả pháp và vận dụng các pháp dễ dàng.
Kinh Hoa Nghiêm mô tả trạng thái đắc đạo của Phật hay giới thiệu một Đức Phật thông cả vũ trụ, lấy vũ trụ hoặc pháp giới làm thân. Khi nhận thức về Đức Phật trên nền tảng thâm nhập pháp giới theo tinh thần Hoa Nghiêm, chúng ta sẽ thấy Đức Phật khác với Phật ở thời kỳ nguyên thủy. Điều này không có gì lạ vì nhận thức của con người tiến triển, thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Đức Phật ở thời kỳ nguyên thủy là Phật Thích Ca, một người có thực được lịch sử ghi nhận. Ngài là Thái tử sống trong cung điện, nhưng thường băn khoăn, suy tư về kiếp sống trầm luân vô hạn của con người. Ngài từ bỏ cuộc sống cao sang, dấn thân tìm chân lý. Sau 5 năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh và 49 ngày tư duy dưới cội bồ đề, Ngài chứng quả Vô thượng Đẳng giác.
Sau đó, Đức Phật đi truyền bá chánh pháp, trước tiên Ngài độ 5 anh em Kiều Trần Như. 6 Tỳ kheo, 1 Thầy và 5 trò trở thành biểu tượng Tam bảo đầu tiên của Phật giáo.
Trên bước đường vân du hóa độ, giáo đoàn do Ngài hướng dẫn đã phát triển dần lên đến 12.000 Tỳ kheo, 6.000 Tỳ kheo Ni và nhiều cư sĩ thuộc mọi thành phần xã hội. Từ vua chúa đến thường dân đều phát tâm hộ đạo. Đến năm 80 tuổi, sắc thân Phật cũng hoại diệt như bao nhiêu thân người khác, chấm dứt một đời du hóa độ sanh.
Tuy nhiên, cách đánh giá Đức Phật bình thường như bao người trên cuộc đời, không còn giá trị ở thời Phật giáo phát triển. Vấn đề đặt ra cho người tu học Phật là nếu Đức Phật cũng là con người như chúng ta, thì tại sao trong loài người từ khi Phật Niết bàn đến nay, chỉ duy nhất có Ngài tu thành Phật. Từ nghi vấn này của những hành giả theo tư tưởng Phật giáo phát triển, mở đầu cho cách nhìn đổi khác. Nhìn về chiều sâu của con người để định giá trị.
Bên trong của Phật, Bồ tát, La hán tiềm ẩn công đức tu hành tích lũy nhiều đời, khác với chúng sanh chất chứa nghiệp ác. Trước kia quan niệm tu một đời thành Phật. Nay quan niệm đổi mới, thấy được quá trình Phật, Bồ tát, La hán đã tu nhiều đời, không phải một đời. Điển hình như Xá Lợi Phất đã tu 60 tiểu kiếp, hiện đời mới có trí tuệ bậc nhất.
Từ căn bản này, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự ra đời, nói về tiền kiếp của Phật và Bồ tát. Dưới lăng kính của Phật giáo phát triển, Đức Phật có hai thân : Sanh thân và Báo thân.
Với đức hạnh cao quý và trí tuệ quán sát đúng nhân duyên đắc độ, Đức Phật đã cảm hóa người một cách nhẹ nhàng. Chúng ta có nói rát cổ, họ cũng không nghe. Có thể khẳng định rằng tri thức và đạo đức của Phật mới có công năng khuyến hóa được người. Nghĩa là Báo thân Phật đã giáo hóa chúng sanh. Nhận chân như vậy, Phật giáo Đại thừa chủ trương triển khai Báo thân Phật, để nuôi lớn Báo thân của chính mình.
Trên nền tảng của Phật giáo Đại thừa nhận thức về Báo thân Phật hay thân phước đức trí tuệ, kinh Hoa Nghiêm mở rộng hơn nữa. Theo Hoa Nghiêm kiến giải, ta là một phần Pháp thân của Phật vì ta sống trong pháp Phật, hành trì pháp Phật, tự nhận là đệ tử Phật. Và ta nhận được trí tuệ, đức hạnh của Phật tác động qua tri thức và đạo đức của ta.
Nhận chân rõ lực tác động sâu sắc này của Đức Phật đối với loài hữu tình, kinh Hoa Nghiêm nhắm đến phát huy Phật thực tên là Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na Phật hoàn toàn khác với Phật ở thời nguyên thủy.
Như trên đã nói, Đức Phật ở thời Phật giáo nguyên thủy là một người thực ở trần thế có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Nhưng đến kinh Bát Nhã chỉ rõ nếu coi 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp là Như Lai, người đó hành tà đạo.
Tiến đến kinh Hoa Nghiêm, chúng ta không thể hình dung Đức Phật là tượng Phật bằng xi măng, gỗ đá được thờ ở chùa và cũng không phải là đức Thích Ca sống thuyết pháp. Tuy nhiên, phủ nhận hoàn toàn Phật lịch sử và Phật tượng đều không đúng.
Tinh thần Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta ý niệm hoàn toàn mới về Phật, khác hẳn quan niệm của các kinh khác, kể cả các kinh Đại thừa. Quan niệm về Đức Phật theo Hoa Nghiêm là Phật toàn diện, tức không có một cái gì không phải là Phật mới là Phật. Từ loài người cho đến loài thú, kể cả cây cỏ đều là Phật.
Tu theo Hoa Nghiêm, phải thể hiện được tinh thần toàn diện. Nếu còn nhìn phiến diện, chấp vào một cái nào đó, chúng ta rớt qua biên kiến, không thể đến với Phật của Hoa Nghiêm.
Với lý giải Phật không có một hình nào cố định trên thế gian gọi là Phật thì đó mới là Phật, Đức Phật đã hiện diện trong tất cả loại hình. Phật đó là Tỳ Lô Giá Na, tiêu biểu cho ánh sáng trí tuệ. Tuy không thấy bằng mắt, nhưng trí tuệ Phật có tính phổ biến toàn diện, có khả năng đi đến bất cứ nơi nào cũng không chướng ngại. Trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện vô thân trưởng lão thì trưởng lão thành Phật.
Ý niệm đặc biệt về Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm không có hình cố định, mở rộng cho hành giả có tầm nhìn thoáng, khác hơn các bộ kinh khác. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi hành giả phải đạt đến trình độ tu chứng nhất định nào đó để hiểu, để sống và hành đạo theo Hoa Nghiêm.
Đứng ở lập trường không có gì không phải là Phật mới thực là Phật, để quan sát sinh hoạt mọi loài, kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh Đức Phật có 10 loại thân. Con số 10 chỉ cho bội số, là số tiêu biểu cho tất cả. 10 thân này tổng hợp thành Tỳ Lô Giá Na thân của Thích Ca Mâu Ni.
Trước nhất, Tỳ Lô Giá Na Pháp thân tác động vào loài hữu tình trong 6 đường sanh tử hay thế giới của phàm qua 3 thân : chúng sanh thân, quốc độ thân và nghiệp thân.
Chúng sanh thân hay ngũ ấm thân là căn bản. Tất cả muôn sự muôn vật đều phát xuất từ thân ngũ ấm. Khởi đầu, Đức Phật cũng mang thân ngũ uẩn. Nhưng Ngài khác chúng sanh ở điểm Ngài điều động được ngũ uẩn. Trong khi chúng ta bị ngũ uẩn thân chi phối, làm nô lệ cho nó.
Điều này dễ nhận ra trong cuộc sống. Khi còn phải sống với thân vật chất, kẹt với sắc uẩn, chúng ta luôn bị bốn tướng nóng lạnh, đói khát ràng buộc chặt chẽ. Chỉ cần tách linh hồn khỏi sắc thân, sống với thức uẩn, dù chưa phải là chân tâm, chúng ta cũng không bị bốn tướng này chi phối. Thí dụ khi nằm mơ thấy rớt xuống biển hay đi vào lửa. Chúng ta không hề bị chìm hay có cảm giác nóng. Nghĩa là linh hồn không thể bị chìm, không thể bị cháy. Linh hồn không có nóng lạnh.
Đức Phật cũng sử dụng ngũ uẩn thân để tu hành đắc đạo và giáo hóa độ sanh. Khi mãn duyên hành đạo, Ngài từ bỏ thân ngũ uẩn dễ dàng. Ngài mang thân ngũ uẩn để làm Phật sự, nên ngũ uẩn thân được coi là Phật thân theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, cần nhận định rằng Đức Phật Thích Ca có thân ngũ uẩn, nhưng chúng ta chấp vào ngũ uẩn này là Phật, sẽ phạm tội phá pháp. Hoặc ngược lại, cho đó không phải là Phật cũng sai. Ở khía cạnh nào đó, ngũ uẩn là Phật, nhưng ở khía cạnh khác, ngũ uẩn không phải là Phật. Cầnnhận thức đúng điều này để tu đúng chánh pháp.
Từ ngũ uẩn làm gốc, hiệnloại thân thứ hai là quốc độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Tất cả những gì hiện hữu trong vũ trụ này đều là thân của Đức Phật. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, dòng suối chảy, nụ hoa, cá bơi, chim liệng đều có thể gợi cho chúng ta phát tâm bồ đề.
Đứng ở góc độ này để định giá trị, đối với hành giả Pháp Hoa không có gì không phải là Phật, không có gì không đẹp. Khi chưa tu, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt, gây phiền hà cho chúng ta, làm ta đau khổ. Đến khi bước vào con đường hành đạo của thế giới Hoa Nghiêm, từ con ong cái kiến cho đến cọng cỏ hạt sương, tất cả đều trở thành dễ thương. Quán sát như vậy, người thực dạ tu hành ở núi rừng bên dòng suối, nơi phiến đá. Họ vẫn cảm nghĩ đó là đạo tràng của ba đời mười phương Phật. Có độ cảm tâm như vậy mới tu được. Trái lại, đòi hỏi phải ở chỗ này mới sống được, ở chỗ khác thì buồn khổ. Chúng ta rơi vào vọng tâm, tham đắm, khó tiến tu.
Riêng tôi, trong thời niên thiếu đã từng hành đạo dưới gốc cây, ăn uống thật đơn sơ, nhưng cảm thấy hạnh phúc. Một số thầy tu theo pháp này cũng đồng cảm nhận như tôi. Đến khi họ bắt đầu xây dựng tịnh xá, thu nhận đồ chúng, cuộc đời khổ ơi là khổ. Điều này thể hiện rõ nét khi tâm hồn chúng ta phóng khoáng, không chấp vật. Cái gì đối với chúng ta cũng tốt. Còn chấp, dù chỉ một việc thôi, tức thì trùng trùng duyên khởi.
Dưới lăng kính Hoa Nghiêm, Đức Phật trải thân làm đất nuôi lớn cỏ cây, làm núi sông cho người nhờ cậy, dung nhiếp được mọi loài. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, người nào mang tinh thần rộng lớn, phóng khoáng như vậy, tu hành sẽ thành Phật trong tương lai.
Chúng sanh thân, quốc độ thân hình thành được do phát xuất từ nghiệp thân. Tiền nghiệp của chúng ta thế nào sẽ dẫn đến thân đời sau tương ưng. Túc nghiệp không giống nhau, nên hiện thân ngũ uẩn và hoàn cảnh mỗi người đều khác nhau. Đức Phật trang nghiêm thân bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Và hoàn cảnh nào, Ngài cũng khắc phục, nhiếp hóa được. Vì Ngài đã trải qua quá trình vô số kiếp hành Bồ tát đạo, phát huy trọn vẹn trí tuệ và đức hạnh.
Ngoài thế giới phàm phu, Tỳ Lô Giá Na thân cũng chiếu xuống cõi Thánh để kết hợp, hình thành một thế giới duy nhất là pháp giới.
7 thân kế tiếp của Phật là thế giới quan của bậc giác ngộ, đứng đầu là Thanh văn thân. Thanh văn là người mang hình thức giống Phật, tu hành tuyên dương Phật pháp. Họ được coi như một phần thân trong tổng thân của Phật Thích Ca. Kinh Pháp Hoa quan niệm rằng hình ảnh Thanh văn là thế gian tướng thường trụ. Trên tinh thần này, người Tây Tạng rất quý người tu, tôn là Phật sống.
Hàng Duyên giác tiêu biểu cho tầng lớp trí thức có tinh thần bén nhạy, quán nhân duyên để thấy mối quan hệ của chúng sanh trong sáu đường sanh tử. Thấy được nhân duyên thì thấy được pháp chân thật và thấy pháp chân thật, mới thành Phật.
Điều này gợi chúng ta hai pháp, pháp phương tiện và pháp chân thật. Khi chưa thấy được nhân duyên, chúng ta chỉ mới thấy được phương tiện của pháp phương tiện mà Đức Phật đưa ra. Trong Thiền định, Duyên giác thấy nhân duyên sanh ra các pháp và hành xử đúng với lý nhân duyên để truyền bá chánh pháp. Vì vậy, hàng Duyên giácẩn tu, vẫn là một loại hình thân của Đức Phật.
Kết hợp mẫu người đạo đức của Thanh văn và mẫu người trí thức của Duyên giác để đi vào cuộc đời, độ chúng sanh gọi là Bồ tát. Họ mang ánh sáng giác ngộ cho các loài hữu tình. Bồ tát khởi từ tâm và đến cứu vớt chúng sanh cũng do lực Phật truyền đến. Bồ tát thân cũng là một thân của Đức Phật.
Hành giả đầy đủ tâm đại bi, tròn hạnh Bồ tát, kết thành Như Lai thân. Lúc ấy, hành giả không dấn thân vào đời như Bồ tát, không phải ẩn cư như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể như Thanh văn để trao đổi sách tấn tu hành.
Như Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động qua các loài chúng sanh, giáo hóa mọi người mà không cần cử thân động niệm.
Từ chúng sanh thân hay ngũ uẩn thân tiến đến thân thứ bảy là Như Lai thân, hành giả đã qua quá trình tu chứng. Từ đó, không cần làm tất cả các việc như trước, nhưng các loài hữu tình tự động phát tâm, tự tu hành, giải thoát.
Ở vị trí Như Lai thân giáo hóa, Như Lai cứu độ chúng sanh, nhưng chúng sanh không thấy. Hay đúng hơn, Ngài không cần cứu độ mà họ được độ thoát. Hoạt động chính của Như Lai thân không phải bằng thân. Ngài hoạt động bằng trí tuệ, bằng công đức. Như Lai như như bất động mà hóa độ chúng sanh bằng trí tuệ của Ngài, nên gọi làTrí thân. Phật sử dụng trí tuệ hay trí thân tác động cho chúng sanh phát tâm bồ đề. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới được.
Trí tuệ Như Lai chiếu đến pháp nào, thì biến pháp đó thành thân của Phật, nên gọi là Pháp thân. Thí dụ trí tuệ Như Lai tác động vào Tăng Ni ở Trường Cao cấp và cũng tác động cho cả các pháp, biến gạch ngói thành chùa, thành trường, lớp học, tức là nơi Phật pháp tồn tại. Vì vậy người và vật đều nằm trong phạm vi phát triển Phật pháp, được coi là Pháp thân Phật.
Như vậy, Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm rộng lớn hơn ý niệm Pháp thân ở nguyên thủy, vì bao gồm luôn cả sơn hà đại địa. Trong khi theo nguyên thủy, Pháp thân Phật chỉ giới hạn ở lời dạy của Phật còn lưu lại.
Trên căn bản Pháp thân Phật bao gồm cả loài hữu tình và vô tình, vật nào có huệ Như Lai đưa vô, sẽ biến hóa thành pháp. Thí dụ một hòn đất, một miếng gỗ nhưng được huệ Như Lai đưa vô, có ý niệm về Đức Phật thì hòn đất, miếng gỗ ấy biến thành Phật.
Nói chung, mọi sự vật trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp, nếu có Như Lai huệ rọi vào. Từ căn bản nhận thức này, tinh thần làm đạo theo Hoa Nghiêm là chúng ta nỗ lực phát triển Như Lai huệ của chính mình, để chiếu vào lòng xã hội, vào vũ trụ, biến vũ trụ thành Phật pháp.
Sau cùng, pháp kết hợp trở lại với trí thành một, hay trí và lý bất nhị, tạo thành Hư không thân, tức thế giới Thường Tịch Quang. Nghĩa là từ trạng thái chân như bừng sáng trí tuệ, thấu suốt tất cả sự vật.
Mười thân nói trên là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, được dịch là Phổ Quang Minh Chiếu;vì ở vị trí này, Tỳ Lô Giá Na chi phối tất cả. Nhìn chung, chúng ta có một tổng thể đứng đầu là kết hợp giữa chân lý và trí tuệ chi phối ngược xuống tất cả, từ hàng thánh giả Như Lai, Bồ tát, Thanh văn, cho đến chúng sanh, người thường trên cuộc đời. Tất cả đều hiện hữu trong vô hình. Khi Tỳ Lô Giá Na chi phối đến đâu biến cái đó thành Phật thân. Đó là điều quan trọng của tinh thần Hoa Nghiêm, chúng ta cần suy nghĩ, nhận chân.
Từ căn bản về lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na đối với tất cả loài hữu tình chúng sanh, tác động cho họ phát tâm bồ đề, tự hành đạo, kinh Hoa Nghiêm quan niệm giáo hóa chúng sanh không cần giáo hóa, tức không giáo hóa trên ngôn ngữ, trên hành động bình thường. Tuy nhiên, lực tác động kết hợp giữa trí tuệ và chân lý là một. Dùng đó để chi phối các loài hữu tình, khiến họ phát tâm tu và biến vô tình khí thế giới trở thành pháp giới. Đó là thế giới huyền môn của đạo Phật.
Tóm lại, theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật thành tựu lực toàn diện vô cùng. Ngài chi phối muôn loài mọi giới, đưa tất cả tiến đến Vô thượng giác. Đức Phật cảm hóa dễ dàng đủ loại người có căn tánh hành nghiệp khác nhau, giúp đại chúng đăng địa Hiền thánh, nên Ngài chứng viên mãn Báo thân, thành tựu Tỳ Lô Giá Na Pháp thân.
Riêng mỗi người trong chúng ta đang trên bước đường tiến dần đến quả vị Vô thượng Đẳng giác. Chúng ta chỉ làm được một số việc nhất định. Mỗi người có mức độ cảm hóa khác nhau, tùy thuộc ở quả vị tu chứng, tùy ở lực chi phối của chúng ta đối với người.
Kỷ niệm ngày Phật thành đạo, chúng ta nỗ lực phát huy Báo thân, Pháp thân của chính mình, để từ đó tiếp nhận được lực gia bị của Tỳ Lô Giá Na Pháp thân, biến thành lực của chúng ta làm lợi ích chúng hữu tình.
