Sách
Ý thức sâu sắcviệc làmcủa ĐứcPhật nhưvị đạilương y tùy bệnh cho thuốc, ngài Nhật Liên Thánh nhân đưa ra nhận thức mới theo đó pháp Phật cần ứng dụng theo bốn tiêu chuẩn làgiáo, cơ,thời, quốc (giáo lý,căn cơ,thời gian và quốc độ). Giáo tức giáo lý ĐứcPhật đểlại cầntìm hiểu và họcchân thật nghĩa, từđó phát huy được trí tuệ. Đó lànhư thịvăn, nhưthị tư,như thịtu trìtrên bước đường họcPhật củachúng ta.Không phải chỉ họcvăn tựvà chấp vào giáo điều đểtự ràng buộc mình, không lốithoát.
Pháp nhĩ như thị, tức chân lý muôn đời không hề thay đổimà Phật đã chứng đắc là cái chúng ta phải học, phải đạt được. Từ trí tuệ vô thượng hay từ chân lý, Đức Phật khaira phương tiện. Đối với người mang nghiệp nào đó, Ngài nói pháp tương ưng để chữa bệnh cho họ. Người không bệnh mà lấy thuốc đó uống, rõ ràng là không khôn. Đốivới tôi, học giáo lý phải thấy rõ Ngài nói với ai, lúc nào và ở đâu. Tôi đặt ra ba điều ấy để lý giải là như thị văn. Tôi thường tự hỏi nếu bây giờ có Đức Phật ở đây, Ngàisẽ nói gì. Chắc hẳn Đức Phật ngày nay không nói y như Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm. Vì ngay khi Phật còn tại thế, ở thànhVương Xá, Ngài đã nói pháp khác với ở Xá Vệ và những gì Phật dạy cho chư Thiên cũng khác với vua chúa, pháp của Bồ tát cũng khác với Thanhvăn. Vì tư chất của mỗi người đều khác nhau, nên pháp cũng phải khác.
Bỏ giáo lý Phật thì khôngphải đệ tử Ngài, nhưngchấp vào đó cũng không được. Điều quan trọng là nương lời Phậtdạy để phát huy đạo đức và tri thức của chúng ta, nâng cao hiểu biết cho người, làm lợi ích cho đời. Các vị Tổ lập giáo khai tông đều hành đạo theo hướng này. Các ngài biết thích nghi với xã hội đang sống, nên Phật giáo mớihưng thạnh được. Điển hình như Phật giáo truyền sang Trung Quốc, ở đời Tống, Lương, Đường đã thay hình đổi dạng biết bao lần, đưa ra bao nhiêulà pháp môn, chia ra nhiều tông phái như Hoa Nghiêm,Tịnh độ, Thiên Thai, Luật tông, Luận tông, v.v... Mỗi tông phái có sinh hoạt khác nhau, nhưng chắc chắn không phải các vị Tổ chốngnhau như những nhà nghiên cứu sử Phật giáo kết luận. Theo tôi, chư Tổ hành đạo trong một quốc gia chia ra nhiều nước, nhiều vùng, thì mỗi vị được một lãnh chúa kính phục, hỗ trợ. Hoàn cảnh hành đạo của mỗi vị ở các nơi khác nhau, nên các ngài cũng phải thuyết pháp thích hợpvới nơi ấy. Nhật Liên gọi đó là quốc, tức pháp thay đổi ứng với quốc độ.
Ở Trung Quốc, vào thời kỳ một số nước độc lập, xưng vương, các Tổ nói về pháp bình đẳng, không giai cấp, theođó ai có tài, được việc thì làm vua. Điều này thích hợp với một số tộc hùng mạnh lúc ấy, không chịu khuất phục Hán tộc, nên họ chấp nhận dễ dàng. Nếu cứ ca ngợi Hán tộc là nhất thì e khó sống với họ. Chúng ta thấy rõ các nước phương Bắc ở Trung Quốc theo đạo Phật, mỗi nước có dân tộc tính khác nhau. Các vị Tổ ở nơi nào đều biết phát huy tính đạo đức của dân tộc nơi đó. Nhờ vậy, Phậtgiáo ở các nước ở Trung Quốc thời đó đều mạnh. Cũng như ở Việt Nam, vào thời kỳ mất nước, các Tổ đã đề cao tinh thần độc lập, yêu nước, đạo Phật mới tồn tại. Nếu chỉ chấp pháp, con muỗi cũng không dám giết, cọng cỏkhông dám nhổ, chắc chắn chẳng ai chấp nhận.Tổ dạy đại dụng tại tiền, quyền tại thủ. Đại dụng là tu chứng được liễu nghĩa, không kẹt trong ngữ ngôn văn tự, nên có vô số phươngtiện trong tay, làm lợi ích cho trời người. Phương tiện là quyền và áp dụng được mới có lợi; nếu không, khổ vì chấp pháp.
Chúng ta học và bố tát theo hướng liễu nghĩa chân thật kinh, còn phương tiện thì tùy lúc, tùy nơi, tùy người mà thay đổi cho thích hợp. Đó là tinh thần mà ngài Nhật Liêntriển khai thành giáo, cơ, thời, quốc. Cơ là căn cơ, trìnhđộ của người, kinh thườnggọi là căn tánh, hành nghiệp. Thấy rõ hoàn cảnh và năng lực của người, chúng ta mới khai phương tiện giúp họ được. Không biết mà giúp,nhiều khi còn hại cho ta nữa. Ba tháng An cư, quan trọng nhất là phải tu để thấy được căn tánh, hành nghiệp của chúng sanh. Nếu chỉ theo chủ nghĩa giới điều, cứ đến mùa hạ, chúng ta An cư, tụng kinh, v.v...và rằm tháng bảy Tự tứ lấy lệ, ai về chùa nấy, ta có thêm được lợi ích nào không, đàn na thí chủ có nương nhờ được phước đức của ta không.
Riêng tôi, trên bước đường tuhọc, tôitâm đắcđiều nàotrong kinh, lấy đólàm đạitiền đềtu hành. Từ hiểu, ưa thích mới nhiệt tình phấn đấu đạtmục tiêu. Học, tunhư vậymới tiến được. Tâmđắc rồichúng tadồn năng lực vàođó suytư, Thiền quán. Chúng ta nhận ra yếunghĩa vàđem ápdụng thửcó kếtquả, mớiđem trao đổi vớibạn đồng tu, đólà nghĩacủa bốtát. Ta thanh tịnh vàbạn cũng thanh tịnh, ta phát hiện những nghĩa lý sâu xa và bạn cũng vậy, cùng truyền trao chonhau những sở đắctu hành. Đó làthu hoạch lớn trong mùa Ancư màta vàbạn cùng đạt được, không uổng công tu,không côphụ ơnThầy giáo dưỡng, ơnthí chủủng hộcúng dường. Ba tháng An cưnỗ lựcchứng chođược Tamthừa Thánh quả, nếukhông thìtu chicho cực. Nếu làThanh vănphải chứng Ala hán, Duyên giác phải chứng Bích chi Phật, Bồ tát phải chứng Đẳng giác bất thối. Mục tiêu này chúng ta phải phấn đấu đạt cho được. Có như vậy, Phật pháp mới hưng thạnh.
Từ nghìnxưa cho đến ngày nay, những điều tốt đẹp lợi đạo, ích đời đều do các vị Thánh tăng tu chứng Thánh quả làmnên. Từ phàm Tăng hiểu biết ngang với người đời, tu lên Thánh tăng hiểu biết những điều người đời không vói tới nổi. Nhưng nếu chúng ta không lên được thì phải rớt xuống, không thể đứng yên một chỗ. Rớt xuống nghiệp chướng Tăng thì thân bệnh,tâm buồn phiền,làm khổ người tu chung phải lo. Càng có nhiều nghiệp Tăng, ngu Tăng, Phật giáo càng suy vi. Thánh Tăng đắc đạo nên có đại dụng, ứng dụng được chân thật nghĩa kinh trong cuộc sống,làm lợi ích cho đời. Phật giáo cực thịnh thời Đinh, Lê,Lý, Trần vì vua chúa không hiểu phải thỉnh ý Thiền sưgiải đáp. Thiềnsư khuyên họ phải nghe,vì tri thức của các ngài cao.
Chúng ta tu phải chứng Thánh quả, thấy biết những điều thiên hạ không thấy biết, gần nhất là đạt được Ngũ minhhay có một trong năm phần hiểu biết. Rõ ràng không có một nhà truyền giáo nào làm nên đạo nghiệp mà không biết rành về Ngũ minh. Như ngài Nguyễn Minh Không rất giỏi về Y phương minh, được coi là thần y cứu chữa khỏi bệnh cho Lý Thần Tông, trong khi các danh y phải bó tay, khiến ngườiphải kính nể. Có nhữngThiền sư lỗi lạc hơn nữa khi thông suốt việc quá khứ, vị lai như Vạn Hạnh, Khuông Việt ở thời lập quốc. KhuôngViệt thấy trong đám sứ quân, những người thấp kém không có khả năng thốngnhất đất nước.Với hiểu biết của người đắc đạo, ngài thấy Đinh Tiên Hoàng tuy là cậu bé chăn trâu,nhưng có tư chất lãnh đạo của một bậc đế vương. Thật vậy, có cái nhìn sáng suốt mới thấy được năng lực tiềm ẩn bên trong cậu bé chăn trâu nghèo nàn, rách rưới, để ngài nuôi dưỡng, dạy dỗ, xây dựng thành vị vua làm tốt cho nước, làm lợi cho đạo.
Hàng Thanhvăn nương theo Tứ Thánhđế tu, chứng được Thánh quả là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Chúng ta tự xét mình nghiệp nào thì dùng thuốc đó chữa cho mạnh. Thấp nhất, chứng được Sơ quả của Thanh văn là chúng ta phải trút bỏ được phiền não, không buồn giận, lo toan,tính toán. Tâm hồn chúngta thanh thản, an trụ pháp Không, không quan tâm tới chùa, không nghĩ đến Phật tử, nhưng chùa vẫn đẹp, Phật tử vẫn đông. Không phải không quan tâm rồi mất hết.
Phàm Tăng thì luôn bận bịu tín đồ, phải nghĩ cách làm vừa lòng mọi người, gọi nôm na là làm dâu trăm họ, mới cótiền nuôi chúng,sửa chùa. Đạo chúng đông thì Trụ trìốm. Lo bao nhiêu được bấy nhiêu.Nhưng phước tổn giảm, thì càng lo chùa càng suy sụp. Thánh Tăng không lo mà lo, tức tâm họ không vướng bận mảy trần, đạo pháp, chùa chiền, bổn đạo nương dưới bóng Từ của họ đều phát triển tốt đẹp.
Chúng ta nỗ lực tu ba tháng An cư, cố đạt cho được tâm hoàntoàn vắng lặng. Tâm càng nhẹ nhàng,sự nghiệp chúng ta càng lớn, chùa càng rực rỡ, Phật tử càng thuần thục, là biết chúngta đi đúng lộ trìnhPhật dạy. Sau ba tháng An cư, tâm chúng ta thanh tịnh, giải thoát, tác động cho người nhìn thấy an vui, phước lạc. Được như vậy, ta đã là phước điền Tăng. Trên bước đường tu, đừng làm nô lệ cho nghiệp trần gian.Họ đã khổ rồi mà ta làm nô lệ họ thì ta càng khổ hơn. Ta muốn nhờ vả họ, nên tìm cách thân cận và làm họ vừa lòng để giúp ta. Như vậy thì ai ban phước cho ai.
Tu đắc quả, ngườinhìn thấy ta phát tâm Bồ đề, họ mong được thân cận với ta, cần ta chỉ dạy để phước đức, tríhuệ của họ được tăng trưởng, đạo nghiệp của họ được thành tựu. Trách nhiệm của chúng ta là tu phải thành Hiền Thánh và dìu dắt người cùng thăng hoa Hiền Thánh như ta vậy.
Chín tuần tu học tương đương với ba tháng An cư, vì ngày xưa một tuần có mười ngày.Chúng ta phân chia thời khóa tu hành, kiểm điểm xem trong mười ngày, gặt hái được thành quả nào. Gia công tu hành, nhất định một tuần phải lên được một phẩm sen. Cuối cùng lên đỉnh cao nhất là cửu phẩm liên hoa, phải sạch nghiệp hoàn toàn, làm được những việc thánh thiện, lợi ích cho nhiều người, xứng đáng là trưởng tử của Như Lai thay Phật hoằng hóa độ sanh. Tôi cầu nguyện cho Tăng Ni mỗi mùa cấm túc An cư đều đạt được Thánh quả, mang an lạc cho mọi người, hình thành Tịnh độ ngay trên cõi nhân gian này.
(Bài giảng tại trườnghạ chùa Phổ Đà, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh, 1998)