Sách
Hàng năm, đến ngày rằm tháng 7, nhằm mùa mưa, cảnh vật ảm đạm, u buồn thường gợi cho mọi người nhớ đến tổ tiên, đến đấng sanh thành dưỡng dục hay bà con thân thuộc, bạn bè đã qua đời. Không biết sau khi từ giã cõi đời, những người này có còn sự sống nào khác hay không và hiện hữu ở dạng thức nào. Gần như trong đời ai cũng từng ít nhất một lần băn khoăn, lo lắng cho người thân của mình như vậy. Nhất là khi chúng ta thắp hương viếng mộ, hay cúng kính ở nơi thờ cốt, hoặc lễ Phật, cầu nguyện cho hương linh, làm sao không xúc động, lo buồn cho người thân thương hiện giờ ở nơi đâu, sướng khổ như thế nào.
Đức Phật dạy khi con người chết, thân xác tứ đại bị tan hoại, nhưng trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), phần thần thức tồn tại, thường quen gọi là linh hồn, tức xác mất nhưng linh hồn còn. Linh hồn có hai phần là chân linh muôn đời bất biến, còn vọng thức thay đổi theo từng kiếp người. Mỗi kiếp, chúng ta tích tụ những tư tưởng, việc làm, thuật ngữ gọi là huân tập. Cái đã huân tập sẽ bám vô vọng thức chúng ta, kết thành nghiệp tập quán. Khi sống, chúng ta quen làm gì, nghĩ gì, thì sau khi chết, thần thức chứa nhóm những thứ đó, cảm nhận cái đó và nó dẫn chúng ta đi thọ sanh. Thí dụ, lúc sanh tiền, chúng ta tu hành, không huân tập xấu ác. Với tâm cao thượng và việc làm thiện, không bị lục dục thất tình (hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục) chi phối, nên tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng. Tâm thuần thiện thường nghĩ đến Thánh Hiền, Tiên, Phật sẽ dẫn thần thức chúng ta đi về thế giới Phật hay cõi Trời. Trái lại, tạo ác nghiệp, bị tù đày, khổ sở cho đến chết trong ngục, thì khi chết, ác nghiệp vẫn còn trong Thức, họ vẫn cảm nhận sự đau đớn, tù tội hành hạ. Nghiệp thức đau khổ, thù hận sẽ dẫn họ đi đầu thai. Hoặc khi sống, người ăn chơi trác táng, thì chết, tâm tưởng của họ sẽ bị cảnh xấu xa, trụy lạc thu hút đến. Không có nghiệp đó, chắc chắn cảnh này không hấp dẫn chúng ta được. Điều này dễ hiểu, vì bình thường lúc còn sống đã không ưa thích, tham dự, tức không có trong tâm, trong cuộc sống ta, thì làm gì có chuyện khi chết theo nó. Như vậy, thọ sanh cảnh giới nào là tùy ở nghiệp thức đưa đường, dẫn lối.
Trên nền tảng nghiệp dẫn đi thọ sanh, người tạo nghiệp ác phải tái sanh làm thú vật, nhưng nó khôn hơn các con khác, vì tánh người vẫn còn. Điều này được Đức Phật cụ thể hóa qua câu chuyện ông nhà giàu chôn hũ vàng, chưa chỉ cho người con biết chỗ cất giấu. Lúc chết, thần thức của ông ta cứ mãi vấn vương việc đó, sợ mất của, nên nghiệp giữ của quá mạnh, kéo ông thọ sanh vào làm con chó trong gia đình của người con. Nó rất khôn, cứ nằm canh giữ ngay chỗ chôn hũ vàng. Một hôm, Đức Phật đến hóa duyên, nó sợ lấy mất hũ vàng, cứ sủa hoài. Đức Phật biết được tiền nghiệp của con chó, Ngài thuyết pháp, tác động cho nó nhớ lại đời trước và thức tỉnh, xả bỏ nghiệp thức tham đắm, mà phải sanh làm chó giữ của. Nhờ nghe Phật, nó giải được túc nghiệp bằng cách nhịn ăn, rồi chết.
Đối với hàng phàm phu, còn bị lục dục thất tình chi phối mạnh, khi bỏ xác thân, nghiệp dẫn thần thức họ đi thọ sanh, không thể cưỡng lại được. Nhưng, đối với người tu đắc đạo, không có nghiệp nên không bị nghiệp lôi kéo Thức. Họ hoàn toàn chủ động thần Thức, hướng dẫn ý thức đi thọ sanh cảnh giới nào tùy theo nguyện của họ. Điều này đã được kiểm chứng gần đây, qua một số trường hợp tái sanh của các vị Lạt ma Tây Tạng. Khi viên tịch, chỗ tái sanh được họ sắp xếp, chuẩn bị trước theo ý nguyện và báo cho các người đồng tu biết. Tùy theo hạnh nguyện tái sanh ở đâu, họ dồn thần lực tạo mầm sống đến nơi đó.
Đến mùa Vu lan, theo truyền thống Phật giáo, chúng ta thường làm lễ cúng dường, cầu siêu cho người thân. Lễ cúng dường Vu lan báo hiếu nhằm mục đích nhờ lực của các vị, trên là Phật, Bồ tát, Thánh Tăng, kế là hiện tiền các bậc chân tu, đức hạnh, trợ tiến giác linh. Thí dụ cho dễ hiểu, như chúng ta không làm việc gì, hoặc còn do dự, nhưng có người thương ta, muốn giúp đỡ, thì họ là động cơ thúc đẩy ta bắt tay vào việc. Cũng vậy, trong mùa cấm túc, An cư, chư Tăng nỗ lực phát huy giới, định, tuệ. Tất cả tâm thanh tịnh, trí sáng suốt, việc thánh thiện của nhiều vị đạo cao, đức trọng hợp cùng Thánh Hiền ở thế giới vô hình, tạo thành sức mạnh có khả năng thúc đẩy hương linh đi đến thế giới tốt đẹp hơn, tức chuyển được nghiệp thức của họ. Nhưng nếu người sống than khóc quá, thì hương hồn bị tình cảm nặng nề níu kéo lại, khó lòng đi được.
Đức Phật dạy, khi thần thức sắp rời khỏi xác, bị cận tử nghiệp chi phối, lúc ấy cái nào mạnh nhất, cái đó kéo ta đi, giống như mắc nợ nhiều người, người nào có thế lực nhất sẽ nắm được ta trước. Nghiệp ác nhiều, mạnh, thiện nghiệp ít, yếu, tất nhiên rất khó đi lên cõi tốt đẹp, mà lại dễ dàng rớt xuống chốn ác xấu. Trong vòng lục đạo luân hồi, chúng ta bị sức hút của nó cực mạnh, vì đã quen sống với nó nhiều đời. Muốn thoát ra ngoài vòng tay hiểm độc của luân hồi không đơn giản. Người chết phải dốc toàn thần Thức và nhất là nhờ thêm sự trợ lực của các vị cao Tăng thạc đức, để đưa hồn vượt qua khỏi cảnh xấu ác, bay bổng đến thế giới thánh thiện. Có thể hình dung như sức đẩy mạnh tối đa của hỏa tiễn mới có thể phóng phi thuyền rời khỏi mặt đất, lao đến tận mặt trăng. Hỏa tiễn đẩy không nổi, nổ cháy thì phi thuyền cũng rớt xuống, banh xác.
Trong mùa Vu lan, cúng dường, cầu nguyện cho người thân tái sanh vào cảnh giới an lành, tốt đẹp, cũng có nghĩa là chuẩn bị con đường trở về cõi vĩnh hằng của chính mình. Thiết nghĩ, không gì khác hơn là Tăng Ni Phật tử nỗ lực tu hành, dứt trừ các nghiệp ác, tu tạo cội đức. Việc thiện chưa làm, tinh tấn làm, công đức đã tạo, phát triển hơn nữa. Ngày nào đầy đủ hạnh Bồ tát, ra vào sanh tử tự tại, tùy hạnh nguyện ứng hiện khắp đó đây, mang tình thương và sự hiểu biết thánh thiện cho người. Đó là lý tưởng của hàng đệ tử Phật hằng ấp ủ, thể hiện cho được trong dòng sinh mệnh tương tục của lộ trình Bồ tát đạo.
(Nguyệt san GN số 5, T8/1996)